Thứ Sáu, 17 tháng 5, 2013

ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ CỦA MỘT CÔNG DÂN 1

Tôi tên thật là Nguyễn Xuân Tụ, sinh ngày 22.4.1940 tại Hà Bắc, là phó tiến sĩ sinh học, công tác tại Viện Khoa Học Việt Nam.
Đất nước ta đang độ chuyển mình, cần sự góp sức chung lòng của mọi công dân. Tôi không có khả năng gì cũng xin thành tâm đóng góp phần mình bằng đôi điều suy nghĩ. Trong mười điều nói ra, chỉ mong may mắn có một điều dùng được.
I- Những Cách Tiếp Cận Khác Nhau Để Trả Lời Câu Hỏi Của Thời Đại
Sự sụp đổ của các thể chế xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô là sự sụp đổ của 2/3 số nước trong phe, của nơi quê hương, của nơi thành trì vững chắc nhất, của những điển hình xuất sắc mà ta đang phấn đấu để vươn tới, lại là sự sụp đổ sạch sành sanh không thể cứu vãn,là sự sụp đổ kéo theo tức khắc sự biến dạng của các nước còn lại.Vậy đấy là sự sụp đổ có tính cội nguồn, triệt để và toàn cục.
Vì thế một loạt câu hỏi tự nhiên cứ bật ra: Chủ nghĩa xã hội khoa học là gì? Biến cố kia là tất yếu không tránh khỏi hay do những thiếu sót có thể rút kinh nghiệm? Là khúc quanh thử thách để rồi lại phát triển mạnh hơn theo định hướng cũ hay đây là sự biểu hiện quyết định của sự cáo chung? Mấy nước còn lại, trong đó có nước ta sẽ đi về đâu và số phận nhân dân sẽ thế nào? Gia đình mình, cá nhân mình sẽ sống kiểu gì đây? Tiếp tục phó mặc đại sự cho những người lãnh đạo, mình là dân thì cứ sống theo, để rồi...đất nước vẫn tên là xã hội chủ nghĩa mà những kẻ kiếm bạc tỉ bằng cách mánh mung ngày càng nhan nhản, còn mình thì xin làm thuê không xong mà chẳng biết trách ai? Hay là rút kinh nghiệm, từ nay cứ sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi là xong? Các nước tư bản vẫn cứ tiếp tục đi theo ta lên chủ nghĩa xã hôi như lý luận Mác-Lê đã khẳng định, hay ta đang học theo họ làm tư bản? Hay ta cũng sẽ sáng tạo ra một thứ xã hội chủ nghĩa kiểu Việt Nam? Các nước XHCN ấy đổ là do họ làm sai Mác- Lê hơn ta hay làm đúng Mác-Lê hơn ta? Hay đây chính là lịch sử lại một lần nữa khẳng định đường lối đúng đắn của ta và sức sống vô địch của chủ nghĩa? v.v..
Những câu hỏi ấy người ta có thể tránh trả lời trước mặt người khác nhưng làm sao lại không tự đặt ra trong đầu? Và dù ta có tự dối mình mà tránh né sự trả lời của ý thức thì cái vô thức cũng tự nó đã trả lời và chi phối hành vi của ta rồi. Chứng cứ là cả nước nhất loạt không ai tiếp tục sống như trước.
Vậy nên tôi nghĩ rằng,là một người Việt Nam có giáo dục, có văn hoá, không ai có thể cho phép mình tảng lờ, dấm dúi trong xó kiếm ăn một mình, mà phải đứng ra giữa nơi sáng sủa, nghiêm túc nói rõ ý kiến của mình với sự huy động cao nhất của ý thức trách nhiệm và trí tuệ!
Nhưng sự suy nghĩ nên bắt đầu từ đâu? Tiếp cận vấn đề từ cửa mở nào? Đã có nhiều ý kiến đề cập đến vấn đề này nhưng tựu trung vẫn chỉ có hai con đường: đi từ thực tiễn đến lý luận hoặc từ lý luận đến thực tiễn, cuối cùng vẫn gặp nhau ở những điểm cốt lõi,bản chất.Những cách tiếp cận đa dạng khác nhau cũng chỉ khác nhau ở qui mô của cái lý luận hoặc thực tiễn ấy.
1. Đi Từ Thực Tiễn, Từ Hiện Tượng
Ghi nhận những sự kiện,những tình hình diễn biến của một xã hội, một giai đoạn lịch sử, một hệ thống thế giới...hoặc của nhiều xã hội, nhiều giai đoạn lịch sử, nhiều hệ thống thế giới rồi so sánh,đánh giá,tìm cách giải thích rồi rút ra kết luận.Cách nhìn lưỡng phân (phe XHCN và phe TBCN ai thắng ai,...) cũng thuộc loại này, vì tình trạng hai phe cũng chỉ là hiện tượng nhất thời của lịch sử. Cách xét từng mặt, thống kê từng hiện tượng tuy có vẻ khách quan nhưng là phương pháp có độ tin cậy thấp vì dễ bị tình hình thời sự và cảm tính chủ quan làm cho thiên vị khi thống kê và nguỵ biện khi giải thích.Những mặt tốt xấu trong xã hội thường đan cài với nhau,một thể chế tốt nhất vẫn có những mặt xấu,một thể chế xấu nhất cũng vẫn có những mặt tốt.Nếu không có một nhận thức hệ thống thì nhiều khi không thể phân biệt đâu là mặt chính.Các hiện tượng ở mặt phụ có thể chính là mặt trái tất yếu buộc phải tạm chấp nhận, bởi không có một giải pháp xã hội nào hoàn hảo,nhưng mặt khác bên cạnh sự tốt xấu của thể chế còn có vai trò của truyền thống,vai trò của nhân dân và quốc tế.

Người có óc quan sát sắc sảo hơn thường không xem xét tình hình một cách tràn lan mà tập trung vào một số nhân tố có tính chất chỉ thị (indicateur).Ví dụ : Cứ xem tình hình tự do báo chí,tự do ngôn luận là biết mực độ của một nền dân chủ.Hiện tượng nhiều người xấu trở nên tốt là dấu hiệu của một thể chế tốt,nhiều người tốt trở nên xấu là dấu hiệu của một thể chế không tốt.Cứ thấy một người ngã,chục người tiếp bước thì đó là một phong trào đang lên, tìm mãi không thấy người kế tục thì đó là một phong trào đang xuống. Xem thái độ cởi mở tự nhiên hay dấu dấu diếm diếm thì biết là người tử tế hay kẻ gian phi. Nhất ngôn là người quân tử. Tiền hậu bất nhất là kẻ tiểu nhân .Khoan dung là sức mạnh của người trong lòng thanh thản. Thái độ thù địch thường trực là thế yếu của kẻ mưu điều bất chính... Cách xem tướng bắt mạch này đối với con người cũng như xã hội là cách định hướng nhanh và sơ bộ,sau đó phải được phối kiểm bằng sự khảo sát kỹ lưỡng và tư duy hệ thống.
2. Đi Từ Nhận Thức Hệ Thống, Từ Bản Chất của Quá Trình
Đây là sự nhận thức vấn đề từ đầu mối của nó,từ những qui luật tổng quát đã được khoa học thừa nhận và phát triển.ở tầm khái quát nhỏ có thể xuất phát từ những qui luật mà tính bao trùm của nó chỉ trong một phạm vi hay một mặt hạn chế nào đó. Ví dụ như qui luật đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp, qui luật về sự phù hợp giữa sức sản xuất và quan hệ sản xuất, qui luật phát triển về quyền lực... Một cách hệ thống hơn nữa thì nhìn sự thay đổi toàn diện của xã hội trong sự phù hợp với các nền văn minh kế tiếp nhau của lịch sử (như văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh tin học...) Nhưng khái quát hơn cả là xuất phát từ những qui luật tổng quát về sự tiến hoá của nhân loại , từ bản chất con người và xã hội. Đây là cách tiếp cận khoa học nhất nhưng cũng khó nhất, chạm đến những quan điểm chi phối cả hệ thống tư duy.Chỉ bằng cách ấy mới có khả năng đạt tới những nhận thức chính xác, nhưng ở độ khái quát ấy thì sai một ly đi một dặm!

Việc tách bạch các phương pháp tiếp cận cũng giống như việc phân tích các động tác võ thuật cơ bản, khi ứng dụng tất nhiên phải phối hợp linh hoạt, không thể cứng nhắc nhưng quán xuyến cả quá trình nhận thức phải là tư duy hệ thống.
Xuât phát từ những phân tích thực tiễn sâu sắc, và với một năng lực khái quát rất cao, Marx đã dựng nên một lý thuyết tương đối hệ thống, rồi đem nó trở về với thực tiễn và dùng thực tiễn để điều chỉnh lại nhiều lần. Marx và Lenine vừa là những bộ óc lớn vừa là những chiến sĩ và nhà tổ chức đại tài. Về mặt cá nhân những con người cụ thể dễ gì đã có người nào vượt qua!
Nhưng sức vóc một con người dù vĩ đại đến đâu cũng không thấm gì so với sức vóc một thời đại. Bên cạnh những phát hiện lớn lao, sự hạn chế của trí thức con người thời ấy đã để lại trong học thuyết của các ông những khiếm khuyết không phải không căn bản. Điều trớ trêu nhất của lịch sử là chính nhà triết học duy vật biện chứng và chống chủ nghĩa không tưởng lại trở thành nhà xã hội học duy tâm, siêu hình và không tưởng rất điển hình. Những kẽ hở ấy của học thuyết không phải không có những người nhận ra ngay từ đầu,và cũng nguy hiểm hơn là cũng ngay từ đầu,nó bị cái mặt bản chất thiện của con người lợi dụng,khai thác triệt để cho những lợi ích và sự nghiệp cá nhân. Thế là xuất phát điểm là tập thể mà lại thu được sản phẩm cá nhân cực đoan. Xuất phát từ đạo đức mà lại thu được sản phẩm phi đạo đức, chứ không phải như sự ngộ nhận của nhiều người,rằng tình trạng phi đạo đức là do ta tôn thờ một chủ nghĩa xã hội khoa học, quá đề cao lý trí nên hại đến cái tâm đâu! Vấn đề là chủ nghĩa xã hội khoa học còn thiếu khoa học, nhận thức chưa đúng qui luật, do làm sai qui luật nên kết quả mới lộn ngược so với khát vọng.
Ở những năm cuối cùng của thế kỷ này,một đầu óc bình thường cũng có thể được thời đại chỉ cho để nhìn thấy sự thiếu cơ sở khoa học của học thuyết đó.Những điều như thế chỉ có thể vạch ra rõ ràng bằng tư duy hệ thống triệt để,mà ở một chừng mực nhất định tôi hy vọng có thể gợi ra được những phần viết sau đây.
II- Suy Nghĩ về Bản Chất Con Người và Xã Hội
1. Con người khác với con vật, con người có sự tự nhận thức về mình, về sự tồn tại của mình.
Điển hình cho cái nhìn con người một cách tự nhiên, đơn giản là quan niệm con người của học thuyết Khổng-Mạnh coi con người là đơn vị cơ bản cấu tạo nên gia đình,nhiều gia đình cộng lại thành quốc gia, nhiều quốc gia cộng lại thành thế giới. Trong chuỗi tổ chức ấy con người là những cá nhân, với tư cách là những đơn vị tự thân hoàn chỉnh,chiếm vị trí gốc rồi toả ra xã hội. Thân có tu thì gia mới tề, gia có tề thì quốc mới trị, quốc có trị thì thiên hạ mới bình được ! (lô gích này ta cũng gặp lại trong câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh:muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải có những con người xã hội chủ nghĩa!) ấy là những con người nông nghiệp, con người của cái tâm. Cái trí còn rất sơ khai,còn cái lợi của cá nhân thì bị nén lại. Ngay khi hình thành quan niệm này về con người đã gặp bế tắc. Tu thân đến như đức thánh Khổng, đạo đức đến như đức thánh Khổng mà không được nước nào dùng, các quốc đều bất trị, thiên hạ thì bất bình, bởi mô hình con người đạo đức (homo ethicus) chỉ là con người của qui mô gia đình, làng xóm. Một người hướng về hành động như Khổng Tử mà quan niệm này của ông thì thật là không tưởng. Bệnh xã hội chủ nghĩa không tưởng của nhân loại có thể đã âm ỉ từ trước công nguyên. Chủ thuyết là đức trị, nói dân là quí ,rồi mới đến xã tắc, còn vua thì xem nhẹ mà trong thực tế thì thang giá trị luôn lộn ngược trở lại. Nền đức trị chỉ thịnh vượng khi có một minh quân độc tôn. Nhưng bất kể triều đại nào quân cũng chỉ minh được lúc đầu, sau thế nào cũng thoái hoá biến chất. Chỉ có đám lê dân là ngoan ngoãn tu thân, còn những kẻ thống trị thì chẳng thấy ông vua nào theo được Nghiêu Thuấn cả! Dân bao giờ cũng ham mê cái lợi và tôn thờ cái tâm, nhưng thấp cơ thua trí kẻ thống trị. Các vị vua chúa đều hiểu rõ ba yếu tố ở con người,nên muốn khống chế phần con thì dùng cái lợi, muốn khống chế phần người thì dùng cái tâm và rất ngại nâng cao dân trí. Cứ như vậy con người đạo đức bị chế độ phong kiến và nông nghiệp giam hãm hàng chục thế kỷ.

Khi CNTB hình thành, quan hệ sản xuất công nghiệp làm cho nhận thức về con người rung chuyển tận gốc.Một mặt, tính cá nhân của con người phát triển mạnh, nhất là con người của cái lợi,nhưng mặt khác sự ràng buộc của các cá nhân trong guồng máysản xuất và tiêu thụ của xã hội cũng ngày càng chặt chẽ.Thế là con người nông nghiệp, con người cá nhân của chế độ phong kiến bị giằng xé mãnh liệt theo hai chiều ngược nhau,chiều cá nhân và chiều xã hội. Kết quả là đến thế kỷ 19 đã bùng ra hai xu hướng ngược hẳn nhau về nhận thức bản chất con người: con người của phái Mác xít và con người của phái hiện sinh.
Nhận thức về con người của phái Mác Xít
Ưu điểm nổi bật của trường phái này là phát hiện ra tính xã hội của con người. Quan hệ của xã hội với cá nhân không phải là quan hệ của số tổng và các số bị cộng mà là quan hệ điều khiển,chi phối :xã hội quyết định con người.Tiếc rằng Marx đã cường điệu tính xã hội này đến mức cho nó choán toàn bộ nội dung con người, coi con người chỉ là tập hợp (ensemble) của các quan hệ xã hội

(1). Khi đã định nghĩa con người như vậy thì nếu rút hết phần xã hội ấy đi,con người chỉ còn là con số zero,là hư vô! Vậy là duy tâm,siêu hình và phi lý! Song quan điểm cực đoan này không dừng ở đó.Con người đã không còn thuộc tính cá nhân ,chỉ còn thuộc tính xã hội, nhưng xã hội theo quan niệm của Mác chỉ là những cuộc đấu tranh liên tiếp.Ông nói :Lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp!
(2). Qui tất cả mọi hoạt động xã hội của con người thành hoạt động đấu tranh giai cấp thì nội dung con người cũng chỉ thu vào trong nội dung giai cấp,có bản chất là con người giai cấp. Nhận thức này về con người là cơ sở để thiết lập nên chủ nghĩa duy vật lịch sử, là cơ sở để hoạch định chương trình cách mạng vô sản và xây dựng CNXH.Trong các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin,phần lớn nội dung là dành cho vấn đề đấu tranh giai cấp, vấn đề con người chỉ được nói tới một cách sơ lược.Sau này ông Trần Đức Thảo có thuyết minh vấn đề này bằng quan điểm rằng :con người có hai bản chất : con người giai cấp là bản chất hàng một,con người nói chung là bản chất hàng hai.
(3). Việc tập trung tinh lực của con người vào cuộc giành giật giai cấp,bỏ quên cả một thế giới phong phú nằm trong cá nhân và không chấp nhận có những mặt của xã hội nằm ngoài giai cấp đã làm cho con người trở nên nghèo nàn một cách đáng sợ!
Học thuyết Khổng Tử lấy cá nhân làm gốc,học thuyết Mác lấy xã hội làm gốc,nhưng gặp nhau ở một yếu tố chung là đạo đức (những nhà lý luận Mác -Xít không thừa nhận điều này). Nếu Khổng Tử lấy việc tu thân làm gốc để toả ra làm tốt xã hội, thì Mác lấy việc tu xã hội (làm cách mạng để thay đổi quan hệ sản xuất )để mở đường cho việc làm tốt cá nhân.Chỗ giống nhau ấy là do đều xuất phát từ tinh thần nhân văn cổ điển, coi con người là tính bản thiện, chỉ cần diệt điều ác (tu thân) hoặc diệt cơ chế cá nhân (đánh đổ CNTB) là con người hoặc xã hội sẽ trở nên thiện. Điểm giống nhau ở tất cả các trường phái nhân văn cổ điển là cần một đấng tối cao tiêu biểu cho cái thiện và toàn xã hội chỉ được hướng vào đấng tối cao và chí thiện ấy thôi.Xã hội bình trị của Khổng Tử sẽ được thực hiện nếu như có một minh quân biết đặt dân cao hơn xã tắc ,xã tắc cao hơn ngôi vua.Xã hội ưu việt của Mác cũng sẽ được thực hiện nếu có một đảng tiên phong chỉ biết lấy lợi ích xã hội làm lẽ sống,ngoài ra không còn một lợi ích riêng nào khác!(và sau khi dành được quyền lực nó lại chủ động tổ chức xã hội sao cho quyền lực ấy có thể tiêu vong dần đi!).Một đấng tối cao lý tưởng như thế lúc nào cũng có mà lúc nào cũng không có.Có,vì nó đã được trời hoặc lịch sử trao sứ mệnh rồi, dân chẳng phải đi tìm,mà cũng chẳng có quyền bầu chọn! Không có, vì giữa cõi trần tục này kiếm đâu ra một thực thể lý tưởng phi lý như thế?
Mác cũng như Khổng Tử đều không hiểu rõ con người, đều mất cảnh giác trước mặt trái của con người, nằm sẵn trong con người từ bản năng xa xưa,từ cõi vô thức của nó. Quan niệm nhân văn cổ điển ấy nhân đạo nhưng siêu hình,phi biện chứng và cũng không duy vật nên dầu có được bổ sung bằng hàng trăm giải pháp thực tế và dân chủ nó vẫn không thoát ra khỏi cái vòng ảo tưởng và độc tôn,độc đoán.Xã hội đi từ cái tâm thì không tới được cái tâm.Trải qua hàng triệu năm đau khổ con người mới nhận ra và buộc phải chấp nhận cái nghịch lý khó hiểu và khó chịu đó.
Khi bàn về con người của phái Mác -Xít tôi không thể không liên hệ đến con người của phái Khổng Mạnh mặc dù có thể Mác không hề đọc Khổng Tử.Trí tuệ luôn là cái chung của nhân loại,nó phản ảnh những giai đoạn tất yếu của lịch sử tư tưởng nhân loại.Hai học thuyết về con người ấy vừa có chỗ giống nhau như in,vừa có chỗ ngược nhau,tương tự như phép biện chứng của Mác Ănghen so với phép biện chứng Hegel vậy. Có thể nói Mác đã công nghiệp hoá con người cá nhân đạo đức, nông nghiệp của đạo Khổng để nó trở thành con người xã hội và con người kinh tế (homo economicus) trên cái nền chung nhân văn cổ điển .
Nhưng,như đã phân tích ở trên,theo quan niệm của Mác thì tính xã hội của con người là yếu tố quán xuyến,quyết định. Khi con người đã là con người xã hội thì yếu tố kinh tế của con người cũng phải mang tính xã hội,do đó tư liệu sản xuất của con người cũng phải xã hội hoá , điều này mâu thuẫn với sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của chủ nghĩa tư bản,cho nên phải phá bỏ chính chủ nghĩa tư bản để thực hiện sự công hữu hoá về tư liệu sản xuất.
Đến đây ta thấy xuất hiện những vướng mắc về logic:
-Mâu thuẫn giữa tính xã hội của sức sản xuất (trong đó có con người ) và tính tư nhân của sự chiếm hữu là mâu thuẫn xuất hiện ngay từ đầu của CNTB, ngay từ đầu đã khôngcó sự phù hợp giữa sức sản xuất và quan hệ sản xuất thì CNTB phát triển sao được đến như ngày nay? Theo Mác thì mỗi phương thức sản xuất trong lịch sử đều phải có một giai đoạn hoàng kim trong đó có sự phù hợp giữa sức sản xuất và quan hệ sản xuất.Vậy CNTB không có giai đoạn này sao? Vai trò của CNTB nằm ở quãng nào?
-Có thực mâu thuẫn giữa tính xã hội và tính tư hữulà mâu thuẫn loại trừ nhau không? Việc xác nhận mâu thuẫn này có trái ngược gì với luận điểm cũng của Mác về sự chín muồi và tan rã đồng loạt của CNTB trên toàn thế giới không?

Nhận thức về con người của phái hiện sinh
Hiện sinh không phải là một phái thuần nhất, nhưng thống nhất trong xu hướng khám phá con người cá nhân ,và với hướng này nó đối lập với tất cả các môn phái triết học và tôn giáo trước nó và cùng thời với nó.

Triết học và tôn giáo xưa nay đều đặt cá nhân con người bên cạnh những cá nhân khác,với mối quan hệ qua lại và trong trường tác động của các nguồn sức mạnh khác nhau như thần quyền,đức tín,lý trí,qui luật,đạo đức,lý tưởng...nghĩa là có những điểm tựa cho con người và không thể có tự do hoàn toàn cá nhân.
Thoát khỏi bao nhiêu trói buộc hà khắc con người mới đạt tới độ tự do như con người của xã hội công nghiệp,lúc ấy con người cá nhân mới có điều kiện và mới dám nhìn vào bản thân mình,thấy mình hiện hữu và có quyền chỉ huy con người mình.Nhưng trong khoảnh khắc lịch sử cởi trói thiêng liêng ấy,cơn phấn khích đã làm cho một bộ phận xã hội đi quá đà,ngỡ mình đã được thả hoàn toàn tự do.Chủ nghĩa hiện sinh là tuyên ngôn của con người cá nhân,là một cuộc khởi nghĩa thất bại ,nó còn ấu trĩ nhưng thiết tưởng chẳng nên ruồng bỏ,mà chỉ nên thương cho số phận con người (cũng như CN Mác -Lênin là tuyên ngôn của con người xã hội!). Sự đối địch giữa hai thái cực của nhận thức là điều dễ hiểu. Theo quan niệm hiện sinh,con người chỉ tồn tại đúng như nó đang hiện hữu,như một thực thể đơn độc riêng biệt bị vứt vào trong vũ trụ,nó tự chiêm nghiệm, tự hành động theo cá tính riêng của nó,rồi chết.Trong trạng thái tự do không có điểm tựa ấy nó thấy mình hoàn toàn có quyền chủ động lựa chọn con đường anh hùng hay hèn nhát ,là con thú hay siêu nhân,hoặc thờ ơ vô cảm hoặc chán chường buồn nôn .
Một bên tự do đến mức chẳng thấy xã hội đâu cả,một bên lại ràng buộc đến mức chẳng thấy cá nhân đâu cả.Nói con người là sự tập hợp tất cả những mối quan hệ xã hội thì có nghĩa là mọi ý nghĩ và hành động của cá nhân đều bị qui định bởi xã hội (xã hội có giai cấp thì sự qui định là do giai cấp!)không còn có chỗ cho tự do cá nhân,tự do chỉ còn nghĩa là tự giác làm theo qui luật,và trong bối cảnh các quan hệ xã hội như nhau,không có cá tính,như những đinh ốc trong một cỗ máy của công nghiệp.
Một bên là sự lên tiếng của lý trí,ý thức,còn một bên là sự lên tiếng của bản năng, tiềm thức,vô thức, siêu thức.
Một bên muốn liên kết mọi người thành một tổ chức để làm một cuộc cách mạng cho ngày mai,một bên lại rũ tung những con người ra thành một thế phân tán vô tổ chức, vô mục đích, chỉ biết có hiện tại.
Đó là mâu thuẫn giữa người đang nhóm lửavà kẻ phá hoại vẩy nước lạnh vào.

Nhưng đối với chủ nghĩa tư bản thì cả hai con người ấy đều là kẻ phá hoại.

Chủ nghĩa tư bản bắt đầu phát triển đòi hỏi có một khái niệm con người tương ứng với thời đại của nó.
Chủ nghĩa Mác trả lời :Trong xã hội công nghiệp con người phải la ø con người xã hội ,nó mâu thuẫn với chủ nghĩa tư bản nên phải phá bỏ chính chủ nghĩa tư bản đi !(Đây mới thật là gáo nước lạnh đổ vào chủ nghĩa tư bản!)
Chủ nghĩa hiện sinh trả lời :con người bao giờ cũng là con người cá nhân !Mặc xác cái xã hội vô nghĩa của các anh!tôi làm việc của tôi!
Cả hai câu trả lời đều negatif,chẳng câu nào ủng hộ chủ nghĩa tư bản cả!Vậy mà chủ nghĩa tư bản không bế tắc,không chết mà phát triển đến ngày nay,và phát triển như ngày nay! (Thực tế này không hề chứng minh cho quan điểm rằng chủ nghĩa tư bản là hoàn hảo,bất biến và vĩnh hằng!).Bởi vì sao?Bởi lịch sử không chờ các nhà lý luận cho phép hay không cho phép nó.Ghép hai câu trả lời negatif nói trên đã thành một câu trả lời positif cho lịch sử.Con người vừa là con người xã hội vừa là con người cá nhân,hai tính cách đó không những không loại trừ nhau mà còn là điều kiện của nhau.Muốn xây dựng một xã hội đầy tính xã hội như Mác mong muốn (và như các nước tư bản tiền tiến đang đi tới )hoàn toàn không cần phá bỏ tính cá nhân và tính tư nhân.Con đường xã hội hoá không phải là con đường xoá tư nhân mà là liên hệ các tư nhân một cách xã hội!Sự liên hệ đó gồm hàng trăm mối liên hệ đa dạng phức tạp,trực tiếp và gián tiếp,hữu hình và vô hình,và hình thành dần dần,tương ứng với trình độ khoa học của nền sản xuất.Chủ trương gom vào hợp tác.lấy qui mô hợp tác xã làm thước để đo tính xã hội là hiện thân của một ý niệm xã hội hoá còn sơ khai,cơ giới,thô thiển,phản qui luật chứ không phải chỉ là sự nóng vội.Một khi đã là điều kiện của nhau thì sự thủ tiêu sở hữu tư nhân chính là thủ tiêu khả năng xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Con người và sở hữu.
Không thể hiểu hết con người nếu không hiểu vấn đề sở hữu. Khác hẳn với con vật,nội dung con người chỉ xuất hiện khi xuất hiện sự khẳng định cá nhân.Đó là một trong những khác nhau căn bản giữa xã hội và bầy đàn.Cơ sở vật chất của sự tồn tại con người cá nhân là sở hữu cá nhân và sở hữu tư nhân.Đây là điều kiện tối thiểu để nó có thể tự nuôi sống mình và độc lập tương đối trong cộng đồng.Cũng trên cơ sở đó mà nảy nở thành nhân quyền, dân quyền. Nếu rút cái nền vật chất ấy đi mà còn đề cập đến cá nhân,đến con người,đến nhân quyền,dân quyền...thì đích thực là người duy tâm thứ thiệt rồi chứ còn gì nữa?

Phạm trù sở hữu bao gồm hai bộ phận :cái có và cái quyền.Có là thực trạng sở hữu đối với các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng cụ thể,tiền và vàng cũng thuộc bộ phận này .Quyền biểu thị khả năng của cái có tất yếu sẽ chuyển thành hiện thực trong những điều kiện xác định. Quyền lực chính trị,quyền lực quân sự...thuộc bộ phận này của sở hữu.Đối với dân chúng thì quyền có thể được bảo đảm bằng pháp luật,nhưng mức độ bảo đảm này tuỳ thuộc vào nền pháp trị của nước đó.
Hai bộ phận này của sở hữu có thể chuyển đổi tương hỗ và tác động vào nhau theo quan hệ tương sinh.Sự chiếm hữu tư liệu sản xuất có thể tạo ra quyền lực rồi quyền lực lại làm gia tăng sự chiếm hữu tư liệu sản xuất,bởi thế mối liên kết giữa tiền và quyền luôn là mối nguy hiểm nhất đối với công bằng xã hội.Muốn chống lại chỉ có cách trung lập hoá và luân phiên đối với quyền lực,nếu không thì luật pháp cũng chỉ là hình thức.
Mác thật có lý khi truy sự bất công tới tận hang ổ của nó là sự chiếm hữu,nhưng hang ổ đó có hai buồng thông với nhau thì ông lại chỉ xử lý có một.Mác chỉ thực hiện sự chia đối với tiền (tức tư liệu sản xuất )mà không chia quyền.Đấy là một điều mất cảnh giác.điều thứ hai,tiền sau khi chia lại đem tập trung lại thành một cục,tức là thủ tiêu thành quả vừa đạt được,thủ tiêu mất chính cái hồn của sự công bằng.Thử hỏi cái gì ngăn không cho cái quyền lực tập trung kia chiếm lĩnh lại cái tiền? Quyền đem tập trung lại,tiền cũng đem tập trung lại,trao hết tiền cho quyền,với niềm tin sắt đá rằng tiền sẽ được sử dụng công bằng!Chắc chỉ có mẹ với các con trong gia đình thì may ra điều ấy mới thực hiện được.
Mác đã sử lý rất không công bằng đối với hai bộ phận của sự chiếm hữu.ở mặt chiếm hữu tư liệu sản xuất thì Mác đã quá nghiêm khắc,đáng lẽ chỉ nên chống sự tập trung tư liệu sản xuất quá lớn thì ông chủ trương xoá bỏ mọi sở hữu tư nhân,làm mất đi cái động lực tự nhiên của đời sống.Với quyền lực xã hội thì ông lại quá nuông chiều,cho nó quyền chuyên chính với hy vọng rằng trong một tương lai xa xôi nó sẽ tự tiêu vong.Chiếm hữu quyền lực mới là sự chiếm hữu triệt để nhất!Điều đó nhân loại đã có thừa bài học,còn một thứ quyền lực tự tiêu vong thì suốt lịch sử hàng triệu năm chưa ló ra một tín hiệu nào dể dự đoán nó cả!
Tóm lại! khái niệm con người không thể tách rời khỏi sự sở hữu.Sự sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vừa là cơ sở vật chất để duy trì sự công bằng vừa là nguy cơ gây sự mất công bằng,đó là hai mặt biện chứng của sở hữu.Sợ nguy cơ phân hoá ,sợ qui luật thực tế ấy để rồi chọn một qui luật chỉ hình thành trong ý tưởng,trong đó sự sở hữu (lúc này đã là sở hữu tập thể )chỉ có mặt tích cực,không còn mặt tiêu cực thì rõ ràng vừa duy tâm vừa không biện chứng.
2 -. Xã hội
a. Xã hội là một hệ thống phân cực,không phân tầng
Người là một sinh vật xã hội,tính có tổ chức là một thuộc tính tự nhiên của xã hội nên đương nhiên có bộ phận lãnh đạo và bị lãnh đạo,có thống trị và bị trị.Chức năng thống trị đòi hỏi cực thống trị những thuộc tính khác hẳn cực bị trị.Trước hết nó là kẻ thắng trong một cuộc đấu tranh giành quyền lực,có năng lực tổ chức và có khả năng đưa cả cộng đồng phát triển trong sự cạnh tranh với các cộng đồng khác.Khi xã hội cân bằng,cái trí của xã hội tập trung ở cực này. Ngoài sức mạnh của cái trí nó còn sức mạnh của quyền lực và bạo lực để duy trì sự ổn định của cộng đồng mà nó thống lĩnh,đáp ứng nhu cầu chung của cộng đồng.Mặt khác,những người ở cực thống trị cũng là những con người cụ thể như nghìn vạn người khác,nên họ không thể không có ham muốn xử dụng tất cả sức mạnh nói trên để mưu lợi ích riêng cho bản thân.Họ không thể không có những ham muốn xử dụng mối quan hệ tương sinh giữa sự chiếm hữu quyền lực và chiếm hữu tư liệu sản xuất và cuối cùng trở thành những kẻ chiếm hữu lớn nhất và hưởng thụ lớn nhất,trở thành giai cấp thống trị đối lập với giai cấp bị trị.Tính hai mặt ấy là chung cho mọi nhà nước,xã hội càng dân chủ thì càng nâng cao được mặt chung và hạn chế được mặt riêng của nhà nước (chủ nghĩa Mác coi nhà nước chỉ là sản phẩm của mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà ,chỉ là công cụ bóc lột của giai cấp thống trị (4)là chỉ nhìn thấy một mặt).

Cực bị trị gồm những người sản xuất ra của cải nhưng bị thiệt thòi trong sự ăn chia,lại là số đông,khát vọng của họ trở thành khát vọng của con người nói chung trong xã hội.Vì thế cái tâm tập trung ở cực này (5).
Sự chênh lệch về mọi mặt đó tạo nên một thế hiệu giữa hai cực,mọi cá nhân trong xã hội giống như những điện tử chuyển động qua lại giữa hai cực đó.Các cá nhân có thể chỉ chuyển động trong khoảng trung gian cũng có thể chuyển hẳn từ cực này sang cực kia,nhưng nhìn cả hệ thống thì lúc nào cũng tồn tại hai cực đối lập.Chỉ ở hai cực thì sự liên kết giữa các cá nhân mới chặt chẽ đến mức thành một giai cấp hẳn hoi để có sức mạnh đối chọi với cực bên kia. Còn trong khoảng trung gian sự liên kết rất lỏng lẻo, rất phân ly và phân tán nên không kết thành những tầng chặt chẽ được.Một hệ thống như thế là một hệ thống cân bằng động,có tính chất phân cực chứ không phân tầng.Sự phân chia giai cấp chỉ áp dụng được cho những người thuộc hẳn về hai cực,áp dụng cho những phần tử trung gian là không thích hợp. Quan hệ giữa hai cực là mối quan hệ biện chứng,vừa tương sinh vừa tương khắc,như cực nam cực bắc của một thanh nam châm.Nếu ghét cái cực bắc mà chặt nó đi thì chính tại chỗ chặt sẽ là cực bắc mới.Nếu ghét cực thống trị mà thủ tiêu nó đi cho hết bóc lột,để một cộng đồng gồm toàn những người bị trị cũ tự quản lấy nhau,thì tại chỗ tự quản đó sẽ sinh ra cực thống trị mới,giai cấp bóc lột mới.
b. Hệ thống tổ chức của xã hội loài người
Xã hội loài người gồm đơn vị nhỏ nhất là cá nhân,rồi đến gia đình,dân tộc,quốc gia,nhân loại. Xét trên bình diện tiến hoá toàn nhân loại thì cá nhân,dân tộc và nhân loại là những đơn vị căn bản,chặt chẽ và ổn định nhất.Gia đình và quốc gia là những đơn vị kém ổn định hơn và ngày nay đã có xu hướng giảm bớt ý nghĩa.Trong hệ thống tổ chức từ thấp lên cao ấy không thể xếp giai cấp như một đơn vị chính thức (tôn giáo cũng vậy)nhưng quan điểm cực đoan về giai cấp đã khiến giai cấp trở nên một siêu đơn vị ,dường như những người vô sản trên thế giới có thể tập hợp lại thành một quốc tế ,chia thế giới thành hai phe theo giai cấp! Sự quan trọng hoá tinh thần giai cấp khiến nó trở nên như một lưỡi dao phân tuyến trong mỗi cá nhân,mỗi dân tộc,mỗi quốc gia cho tới nhân loại;một tinh thần giai cấp trùm từ nhân loại xuống mỗi cá nhân!Mà thực ra thì giai cấp chỉ là những tập đoàn người nằm trong vòng tay của quốc gia,dân tộc.Đề cao kinh tế và lợi quyền thì giai cấp sẽ quan trọng ,đề cao văn hoá thì dân tộc sẽ quan trọng,đề cao trí tuệ thì cá nhân và nhân loại sẽ quan trọng,đề cao đạo đức thì gia đình (thậm chí cả làng xóm,quê hương) sẽ quan trọng.

Quốc gia cũng là một đơn vị tổ chức rất cần quan tâm.Trong nhiều thế kỷ quốc gia đã là đơn vị cơ bản nhất,nó gắn liền với sự hoàn chỉnh về lãnh thổ,quyền lực xã hội ,văn hoá tư tưởng là khoảng không gian mà một thiên tử trị vì.Sự cách biệt thông tin và khó khăn giao thông đã khiến quốc gia có vẻ lớn như một thế giới,và lòng yêu nước cũng lớn lao như tình yêu nhân loại bây giờ (và tất nhiên phải yêu thiên tử thì thiên tử mới công nhận cho là yêu nước!).Ngày nay cùng với sự phát triển quá mạnh của phương tiện thông tin và giao lưu quốc tế,với kinh tế thị trường toàn cầu,với quyền cư trú ở nước khác và quyền thay đổi quốc tịch,và nhất là với sự phát triển của trí tuệ là yếu tố phi quốc gia,hình ảnh quốc gia đã mất linh thiêng dần.Lòng yêu nước vẫn còn được coi là đạo đức nhưng không còn là chuẩn mực đạo đức tuyệt đối để có thể phủ định những khát vọng chân chính khác.ở những nước càng văn minh thì ý niệm quốc gia càng giảm phần quan trọng.Sự hợp nhất về một số mặt của 12 nước trong cộng đồng châu âu hiện nay là báo hiệu của xu hướng đó.Mọi vách ngăn sẽ được xoá bỏ dần,và cuối cùng sẽ chỉ còn là những cá nhân sống trong nhân loại.Tính đại đồng ấy là kết quả của sự hoà nhập của các quốc gia chứ không phải do sự liên hiệp của giai cấp vô sản trên toàn thế giới.
Xu hướng lịch sử sẽ là như thế,nhưng sẽ là sai lầm rất lớn nếu áp dụng vội vàng tinh thần phi quốc gia ấy,nhất là ở những nước mà -cả về nhận thức,đạo đức và tâm lý -lòng yêu nước vẫn còn là một chủ nghĩa có giá trị,tích cực,thậm chí vẫn còn là nguồn sức mạnh quyết định của xã hội.
III-.Suy nghĩ về qui luật tiến hoá nhân loại
Mọi người đều nhất trí rằng :người là một loài thống nhất và chặt chẽ,đúng theo tiêu chuẩn của một loài sinh vật nói chung.Về mặt di truyền học,các cá thể trong loài có khả năng giao phối một cách tự nhiên và con cái sinh ra vẫn giữ được khả năng sinh sản bình thường.Về sinh thái học,quan hệ trong nội bộ loài là quan hệ hết sức đặc biệt,gồm hai mặt mâu thuẫn nhau một cách biện chứng :một mặt,sự đấu tranh sinh tồn trong nội bộ loài là khốc liệt nhất,bởi nhu cầu về điều kiện sống của các cá thể đều giống hệt nhau .Mặt khác quan hệ trong loài là quan hệ hỗ trợ,giúp nhau đấu tranh chống các yếu tố bên ngoài.Mặt hỗ trợ là mặt chủ yếu nên mặc dù có cạnh tranh nhau,thậm chí có sự hy sinh của một số cá thể,mà tất cả vẫn kết thành một khối tiến hoá thống nhất,kết quả cuối cùng là cả loài vẫn phát triển.Những nội dung ấy của học thuyết Darwin về đấu tranh sinh tồn,về chọn lọc tự nhiên và tiến hoá khi đem soi rọi vào loài người vẫn giữ nguyên những giá trị quí báu của nó.Nhưng trong hệ lý luận của cách mạng vô sản thì học thuyết Darwin cũng như nhiều giá trị khác của trí tuệ nhân loại đã không thoát khỏi số phận bị công kích kịch liệt (6)trước khi chuyển sang trạng thái mặc nhiên thừa nhận.Chống học thuyết đấu tranh sinh tồn (và cả học thuyết di truyền Mendel-Morgan )không ai mạnh hơn Stalin,nhưng trong hành động thực tế thì không ai tiến hành đấu tranh sinh tồn quyết liệt hơn Stalin,và chính điều đó đã khẳng định giá trị của học thuyết Darwin rồi.
Song loài người là một loài sinh vật đặc biệt ở chỗ có lao động sản xuất và có tư duy,nên hai điều đặc biệt ấy không thể không làm cho sự đấu tranh sinh tồn và tiến hoá của loài người có những bản sắc riêng.
1. Những quan hệ qua lại trong xã hội loài người
Loài người gồm rất nhiều cộng đồng trên khắp địa cầu,và gồm không biết bao nhiêu thế hệ, bao nhiêu thời đại kế tiếp nhau. Những quan hệ giữa những người đang sống cùng thời là những quan hệ ngang,cũng tức là quan hệ trên trục không gian.Quan hệ giữa các thế hệ,các thời đại kế tiếp nhau là quan hệ dọc ,cũng là quan hệ trên trục thời gian,là quan hệ tiến hoá hay thoái hoá.

a. Những mối quan hệ ngang trong xã hội loài người
a1. quan hệ bóc lột và bị bóc lột
Sản phẩm người này làm ra,người kia chiếm đoạt,đó là biểu hiện trực tiếp nhất và phổ biến nhất của cuộc đấu tranh sinh tồn trong xã hội.Sự bất công này hiển nhiên là có liên quan đến sự chiếm hữu tư liệu sản xuất.

Nhưng, ngay cả khi địa chủ tư sản đã bị quét sạch,không còn chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất,chính phủ chỉ ngồi tính các chế độ tiền lương để trả cho cán bộ thôi cũng thấy đây là bài toán không tìm thấy đáp số trực tiếp và chính xác được.Bản chất của khó khăn là ở chỗ : khi đã sống chung trong xã hội thì con người liên quan với nhau và liên quan với xã hội bằng vô số những quan hệ chằng chịt,trực tiếp và gián tiếp,trước mắt và lâu dài,hiện tại và quá khứ...Tất cả những mối duyên nợ rắc rối ấy không dễ gì mà qui thành giá trị lao động (Như Mác đã tính trong cuốn Tư Bản)để thanh toán sòng phẳng trong một cuộc phân chia sản phẩm cụ thể được .Nhưng cứ giả sử là đã tìm được một phương án qui ước nào đó mà mọi người thoả thuận là công bằng,thì sự công bằng ấy mới là công bằng chết ,vấn đề là sự công bằng ấy có làm cho sản xuất phát triển hay không? Như ta đã thấy sản xuất không phát triển mà đình trệ thì rồi lấy gì để tiếp tục chia nhau,và sự công bằng ấy trở nên vô nghĩa!Nhưng thực tế lại còn xấu hơn thế bởi sự tham gia của quyền lực vào quá trình phân phối.Từ xưa đến nay quyền lực tự nó không bao giờ chịu đứng ngoài bài toán phân phối của kinh tế,trước sau gì nó cũng tìm được mẹo để phân phối lại !Thế là sự công hữu hoá về tư liệu sản xuất đâu có chống lại được bóc lột?Lúc ban đầu,sự công hữu quả thực có tạo được thuận lợi cho sự phân phối công bằng nhưng lại bất lợi cho phát triển sản xuất,và nếu không thiết lập được cơ chế dân chủ cho xã hội thì sự công bằng tạo được lúc đầu sẽ bị thủ tiêu ngay,mà sự tập trung tư liệu sản xuất luôn có nguy cơ gây ra sự tập trung tuyệt đối của quyền lực và cản trở sự hình thành cũng như sự hoạt động của cơ chế dân chủ.
Tóm lại bài toán phân phối phải là bài toán gắn liền với phát triển sản xuất và bài toán dân chủ (tức sự phân phối quyền lực) thì mới giải được.Không thể lý giải cơ chế của sự bóc lột chỉ bằng tính toán giá trị thặng dư trong một bài toán tĩnh và thuần kinh tế như Mác đã làm (chưa kể những yếu tố thuần kinh tế trong bài toán ấy cũng chưa đầy đủ).
Bài toán động và tổng hợp ấy,nhân loại vẫn đang loay hoay tìm cách giải,nhưng mô hình thực tế có nhiều khả năng dung hoà được các mặt đối lập hiện nay là : Song song với thị trường mua bán sản phẩm tự do là một thị trường mua bán sức lao động tự do.Thuận mua! vừa bán! Chính trong cuộc vật lộn hoà bình ấy mà sự hợp lý sẽ được xác lập trong từng thời khắc,những sản phẩm và lao động kém chất lượng sẽ bị đaò thải.Xã hội phải có luật cho kẻ bị thiệt thòi có quyền đấu tranh,có chỗ đấu tranh. Cơ quan quyền lực cần được tách ra thành một sức mạnh trung lập,được xã hội thuê làm nhiệm vụ trọng tài.Trọng tài chỉ cần thổi còi cho đúng luật, ngăn cản những tình huống quá đáng,thực hiện một số việc công ích (như giáo dục,y tế,nghiên cứu cơ bản,bảo vệ môi trường...)tuyệt nhiên không được tham chiến trực tiếp để kiếm ăn thêm,và cũng không cần vận động hay dạy dỗ bên nào cả.Một thị trường có tính nhân bản phải giải quyết ngày càng tốt vấn đề sở hữu của người lao động,bao gồm cả hai mặt của sở hữu là mặt tư liệu sản xuất,tiền vốn và mặt nhân quyền!
Một mô hình sinh động như vậy chính là sự thể hiện qui luật đấu tranh sinh tồn vào xã hội loài người,trong đó sự chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo đã nhập làm một,và không có nó thì sự tiến hóa sẽ ngừng.Thiên đường của nhân loại sẽ là một trường đấu lý tưởng,trong đó mọi đối thủ đều có điều kiện phát huy hết tiềm năng,và người có trí tuệ hơn,có năng lực hơn, có ý thức hơn...được đảm bảo sẽ thắng cuộc,sẽ được hưởng thụ nhiều hơn(và được duy trì nòi giống nhiều hơn?)...và xã hội như thế mới là xã hội không còn bóc lột !
Mô hình ấy cho thấy trong sản xuất cũng như trong phân phối luôn cần một không khí đấu tranh hoà bình liên tục,đấy chính là linh hồn của cuộc sống.Cuộc đấu tranh không ngừng ấy chỉ là để giải quyết mối quan hệ ngang,tức là giải quyết sự công bằng giữa những người đang cùng sống chứ không phải đấu tranh,như vậy là làm cách mạng để tiến thẳng tới một xã hội mới về chất .Bởi không nhìn cuộc sống bằng con mắt biện chứng sinh động nên ta coi phong trào đấu tranh của công nhân trong xã hội tư bản là hiện tượng bất thường,bệnh hoạn,khủng hoảng không lối thoát,nên quyết làm một cuộc đấu tranh sinh tử cuối cùng, một mất một còn,để loại trừ đi một vế,để từ đó về sau không còn phải đấu tranh như thế nữa!Kết quả là đã tạo được những xã hội ngưng trệ,tĩnh lặng và bị mất hồn.Xét từ quan điểm sống là đấu tranh (lời Mác )mà nói thì đấu tranh như thế là quá tả ở đoạn đầu và quá hữu ở đoạn sau.ở đoạn đầu thì gây ra những khủng khiếp không đáng phải có ở đoạn sau thì xã hội lại quá im lìm bởi ta đã tước mất vũ khí đấu tranh hợp pháp của chính nhân dân lao động.
a2. Quan hệ xâm lược và bị xâm lược
xâm lược cũng là sự áp bức bóc lột,nhưng khác với sự bóc lột trong nước,sự bóc lột ở đây có ranh giới quốc gia phân định nên nhìn thấy rõ ràng,không cần lý luận hay tính toán gì cả,vấn đề là ở tình thế và vũ lực thôi.Sự phán quyết của nhân loại đối với quan hệ dã man này đã rõ ràng,không có gì phải bàn.

Nhưng đứng ra xa để nhìn,ta thấy trong những nguyên nhân có nguyên nhân về sự phát triển không đều của nền văn minh giữa các nước.Và ngược với ý đồ của nước đi xâm lược,quan hệ này tự nhiên biến thành một phương thức phát tán nền văn minh nhân loại. Kết quả là ở một mức độ nào đó,độ chênh lệch về văn minh giảm đi,và điều này lại trở thành một trong những nguyên nhân để loại trừ dần nạn xâm lược trong thế giới loài người.
Từ lịch sử đau thương của một quốc gia bị nhiều kẻ thù xâm lược nhiều lần,kéo dài trên nghìn năm chúng ta rút được bài học gì?
Niềm tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất đánh ngoại xâm là niềm tự hào chính đáng, nhưng,lần này,anh hùng bất khuất mà lần sau,lần sau nữa...vẫn phải anh hùng bất khuất ,nghĩa là vẫn không thoát khỏi nạn bị xâm lược!Vậy thì riêng truyền thống chống ngoại xâm của một dân tộc không đủ để cứu dân tộc đó ra khỏi nạn ngoại xâm.

Trong khi nước Pháp đã có nền văn minh Công nghiệp mà vua Tự Đức còn coi lời Nguyễn Trường Tộ tả cái bóng đèn điện là lời sàm tấu thì nước ta thua là phải,và dân tộc đã phải trả giá 80 năm nô lệ!Điều căn bản là dân tộc ấy phải nâng nền văn minh của mình cho ngang tầm các nước bên ngoài.Điều thứ hai là phải theo đuổi một chính sách ngoại giao rộng mở và nhân hoà,lèo lái tránh xa các vực thẳm chiến tranh. Chiến tranh đã nổ ra thì dẫu bên nào thắng, hân dân cũng là kẻ chiến bại .
Ngày nay,cả đến chủ nghĩa thực dân mới cũng phải thoái lui nhưng nguy cơ xâm lược không vì thế mà đã hết.Cách xâm lược hiện đại của thời kinh tế thị trường toàn cầu có những cách đi vòng vèo và độc ác của nó.Khái niệm độc lập cũng không thể hiểu đơn giản như trước, nhưng cách chống xâm lược từ xa vẫn không có gì khác hơn là xây dựng một cộng đồng dân tộc văn minh,giàu mạnh.Dân không có tự do,hạnh phúc thì cũng không giữ nổi độc lập cho nước.Nước không độc lập được với bên ngoài thì dân càng không thể có hạnh phúc, tự do.
Đánh giặc cứu nước cũng là để giải quyết mối quan hệ ngang,không nên gọi đó là cách mạng. Cách mạng là quan hệ dọc, quan hệ tiến hoá,là sự chuyển xã hội sang một phương thức sản xuất mới cao hơn,chứ không phải sự chuyển một nước bị đô hộ thành nước độc lập (như một số người hiểu lầm ):Dân ta vốn có truyền thống yêu nước rất cao (còn truyền thống cách mạng thì phải nhận là dân ta chưa có truyền thống ).Nên đã làm nên thắng lợi của hai cuộc kháng chiến vừa qua.Chiến thắng ấy không thuộc phạm trù của CNXHhay CNCS.Nhưng học thuyết Mác -Lenin về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản đã tham dự vào công cuộc giải phóng dân tộc ở nước ta và một số nước khác theo một cơ chế riêng.
Một học thuyết có chủ định là đưa giai cấp công nhân đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội lại chỉ có tác dụng trong việc đưa giai cấp Nông dân đào mồ chôn chủ nghĩa thực dân,phong kiến để bước vào ngưỡng cửa của chủ nghĩa tư bản.Ví dụ một đoạn cầu thang được xây ra nhằm để đi tầng 2 lên tầng 3 nhưng cuối cùng chỉ giúp ích cho một số người đi tầng 1lên tầng 2 thôi!Hiệu quả phi lý ấy lại không phi lý chút nào,bởi cái tầng 3 và cả đoạn cầu thang mới xây kia đều kết cấu bằng vật liệu ảo.Hầu hết những người đã ở tầng 2 thì nhìn rất rõ điều này,cá biệt có ai định đi thử thì té ngã ngay.Nhưng ảo ảnh ấy lại làm nức lòng những người đang đứng dưới tầng 1,khiến họ bỗng có sức mạnh thần kỳ để vượt cái đoạn cầu thang gỗ cũ kỹ từ tầng 1 mà lên tầng 2,đoạn này trước đây họ đã cố leo thử nhiều lần mà không leo được vì nó quá mục nát và còn bị đám người trên tầng 2 dí đầu xuống nữa.Họ định xốc thẳng một lèo lên tới tầng 3 (cho bọn người đáng ghét ở tầng 2 nhìn thấy mà sáng mắt ra ), nhưng vừa lên tới tầng 2 thì họ đã thấy rõ sự thực.Dẫu sao đứng được ở hành lang tầng 2 cũng tốt hơn rồi. Lịch sử đã đi lên một bước (tuy sẽ phải trả giá về sau!)
Ngoài tác dụng động viên,thu hút của cái mục đích giả tưởng,học thuyết Mác -Lenin đã cung cấp cho chúng ta một phương pháp thâm nhập,vận động và tổ chức quần chúng tuyệt vời và nhiều chiến thuật hữu hiệu mà trước đây các cụ Phan Chu Trinh,Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học...chưa ai có.
Có thể nói chủ nghĩa xã hội khoa học đã không thâm nhập được vào nhân loại bằng con đường khoa học,nhưng bằng con đường của lòng yêu nước thương nòi ,chống phát xít,chống thực dân, giải phóng dân tộc.
a3. Quan hệ hỗ trợ,hợp đồng
Nhìn nhân loại theo cả tiến trình lịch sử lâu dài thì không có gì đáng bi quan.Theo thời gian, những quan hệ bóc lột và xâm lược ngày càng giảm đi độ khốc liệt,trong khi mối quan hệ hỗ trợ hợp đồng là mặt chủ yếu của quan hệ trong nội bộ loài ngày càng phát triển rất rõ.

Sự hỗ trợ, hợp đồng vừa xảy ra theo cơ chế vô ý thức, vừa theo cơ chế có ý thức.Sự khuếch tán văn minh là sự lan toả tự nhiên và liên tục không có bàn tay nào xếp đặt.Thậm chí như trên đã nói,hoạt động xâm lược là hoạt động chống văn minh mà còn có tác dụng khách quan là phát tán văn minh.Ngày nay,sự phát triển nhảy vọt của kỹ thuật tin học đã cho con người từ khắp các nẻo địa cầu khả năng thông tin với nhau một cách tức thời.Thông tin quyết định nhận thức,nhận thức quyết định văn minh.ngoài ra sự giao lưu và hợp tác toàn diện giữa các quốc gia đã giúp nhiều dân tộc rút ngắn những khoảng cách thế kỷ.Một nước từ chỗ còn chưa sản xuất nổi một chiếc đinh ốc nghiêm chỉnh có thể bừng mắt ra đã được xem truyền hình màu. Sự giúp đỡ của những tổ chức quốc tế,các chương trình nhân đạo,các hoạt động tư nhân bất vụ lợi...về đủ mọi mặt là biểu hiện cao nhất,rực rỡ nhất của quan hệ hỗ trợ,hợp tác trong loài mà chỉ ở loài người mới có được.Chính sự giao lưu quốc tế ngày càng mật thiết đã giúp nhiều dân tộc nhược tiểu thoát ra được cái ách ngoại xâm,thậm chí giúp cả một số cá nhân tiêu biểu cho lương tri thoát khỏi ngục tù của đám độc tài trong nước.
Nếu diễn thế văn minh trên địa cầu có thể ví như một vùng trập trùng có núi cao và vực thẳm thì sự bùng nổ thông tin và giao lưu quốc tế đã như chiếc xe ủi khổng lồ san đi phần lớn những độ chênh lệch từ bao thế kỷ.Nhưng trớ trêu thay,chiếc xe ủi hàng tỷ mã lực này nhiều khi lại mắc kẹt giữa đám tơ mành lửng lơ,bùng nhùng,giăng ra từ chính lòng người.Và trong một con người lại có thể có cả mấy cấp văn minh cùng chung sống!Con người không chỉ đơn giản là nơi hội tụ của những quan hệ xã hội.Bởi thế sự hỗ trợ hợp tác dù tốt đến đâu cũng không thể làm mất đi cái qui luật phát triển không đều .Mỗi quốc gia có một số phận,nhân dân nào thì số phận ấy.Bên cạnh xu hướng khách quan về sự hoà nhập văn minh luôn tồn tại những rào cản chủ quan mà biểu hiện cực đoan là khước từ văn minh
b. Khát vọng, qui luật và kẻ thù
Với những ai không tin ở niết bàn,thiên đàng thì có thể lấy xã hội cộng sản mà nội dung là không còn giai cấp,không còn bóc lột,không cón nhà nước,nhưng của cải thì tuôn ra như nước và hưởng thụ theo nhu cầu để cân bằng tâm linh.Tất cả đều rất tốt.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét