Hà Nội ngày 19 tháng 5 năm 1995
Thưa ông Nguyễn Trung Thành
Tôi là Phạm Thị Tề, vợ góa ông Vũ Đình Huỳnh, một trong những nạn nhân oan khuất của cái gọi là “Vụ án xét lại chống Đảng”.
Sau khi đọc xong thư của ông ngày 3-2-1995 gửi các quan chức cấp cao của Đảng và Nhà nước, tôi bàng hoàng xúc động. Tôi trân trọng đặt thư ông lên bàn thờ ông Vũ Đình Huỳnh, thắp nến, châm hương, gửi nó tới oan hồn chồng tôi, cầu cho ông được nhẹ nhõm phần nào nơi chín suối.
Trong những ngày cuối cùng ông quằn quại, vật vã, ông chờ đợi một điều gì đó nhưng điều đó đã không đến. Khi vĩnh viễn ra đi, mắt ông không nhắm lại được, các con tôi đã vuốt mắt cho cha. Sang thế giới bên kia, ông Huỳnh đã đem theo niềm uất hận cuộc đời. Tôi, các con tôi, các cháu tôi cũng thừa hưởng niềm uất hận vì oan trái ấy, thay vì một tài sản thừa kế.
Xuất thân từ một gia đình đạo gốc, năm 16 tuổi ông đã giác ngộ cách mạng, trở thành một trong những đảng viên cộng sản đầu tiên. Từ đó, ông đã hiến cả cuộc đời mình cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và tự do cho mỗi người Việt Nam. Ông đã tin vào chủ nghĩa Mác-Lênin còn hơn ngày nào ông đã từng tin Chúa và chung thủy với giáo lý ấy đến cuối đời.
Thế rồi cả công lao, cả tên tuổi đã bị đồng chí của mình - Lê Đức Thọ - xóa sạch.
Gia đình tôi đã tự đứng ra tổ chức lễ tang cho ông trong sự tiễn đưa của họ hàng, bạn hữu cùng các cơ quan đoàn thể. Một lễ tang ấm áp tình người và lạnh lẽo tình đồng chí. Không một đại diện nào của Đảng đến viếng người quá cố, dù nghĩa tử là nghĩa tận. Cùng theo nguyện vọng của họ hàng, tôi đã mời một người cháu là linh mục đến cầu nguyện cho ông. Chưa yên tâm, tôi lại mời các nhà sư đến tụng kinh niệm Phật. Những yêu cầu của tôi đã được đáp ứng mau lẹ, để cho linh hồn ông được siêu thoát. Những tôn giáo khác đã tỏ ra giàu tình người hơn.
Lá đơn tôi viết ngày 20-2-1994 là một trong hàng núi đơn từ khiếu oan của những người trực tiếp và gián tiếp dính vào “vụ xét lại chống Đảng”.
Sự bất đồng về quan điểm - trước số phận của đất nước - với nghị quyết IX (1963) chỉ là lý do trực tiếp dẫn tới việc bắt bớ, tù đầy, đàn áp khốc liệt các cán bộ ở trong và ngoài Đảng. Nguyên nhân sâu xa của vụ này ở đâu? Tôi tin rằng có âm mưu cá nhân của ông Lê Đức Thọ đằng sau cuộc thanh trừng lớn lao này.
Chồng tôi và ông Lê Đức Thọ là đồng hương, quen biết và cùng hoạt động từ ngày cách mạng còn trong trứng nước, rồi cùng tù Sơn La, cùng tham gia Cách mạng Tháng Tám và chín năm kháng chiến ở Việt Bắc. Phải nói giữa họ vừa có tình bạn, tình đồng hương, tình đồng chí. Ông Huỳnh biết quá nhiều về ông Thọ và điều này thực sự là một tai họa với ông.
Cho đến giờ phút này tôi vẫn không sao cắt nghĩa được tại sao những người đồng chí lại có thể tàn ác ám hại nhau một cách khốc liệt đến thế?
Ông Huỳnh bị bắt đêm 18-10-1967, bị còng tay bằng khóa số 8, khi còng sắt không vừa, công an đã dùng dây thừng trói giật cánh khuỷu ông, một ông già đã về hưu. Hình ảnh đó cho đến chết tôi cũng không thể quên, vì nó tàn bạo và man rợ gấp bội phần so với thời thực dân. May mà các con tôi không có nhà (các cháu đang ở nơi sơ tán), bởi nếu chúng chứng kiến cảnh tàn bạo đó, trái tim non nớt của chúng sẽ chứa đầy hận thù và niềm tin sẽ không còn đất nẩy mầm. Mãi sau này, tôi được biết đó là đòn phủ đầu theo lệnh ông Lê Đức Thọ. Ông Huỳnh cũng như một số người khác đã nếm đủ mùi tra tấn, kìm kẹp dưới thời thực dân, muốn khuất phục họ cần phải có những biện pháp tàn bạo hơn? Thế mới biết, hòn đá ném từ tay người bạn, người đồng chí bao giờ cũng bất ngờ và đau hơn.
Sau 6 tháng bị nhốt trong xà lim Hỏa Lò (Maison centrale) ông bị đưa lên Bất Bạt (Sơn Tây), rồi Tân Lập (Vĩnh Phú), Phong Quang (Lào Cai)... Những năm đầu, ông bị giam riêng trong một căn nhà có hàng rào kẽm gai bao quanh, chơ vơ giữa một quả đồi. Đến bữa, có người lặng lẽ treo cặp lồng cơm vào cửa, người này không được phép giao tiếp. Cách giam giữ này có thể làm người tù phát điên. Nếu mỗi bình minh không thỉnh thoảng nghe tiếng chim hót trong rừng, nếu mỗi đêm dài không đôi khi nghe chó sủa xa xa thì mỗi người tù đều có cảm giác như mình đang sống trong nhà mồ. Còn ông Thọ thì chỉ coi đó là “cuộc đấu tranh nội bộ”, rằng “những người đồng chí không bỏ tù nhau đâu”, rằng “thuyết phục không được thì phải dùng biện pháp hành chính”. Ông không có khái niệm gì về pháp luật hay khi đang ở vị thế “thái thượng hoàng”, ủy viên Bộ chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương ông cho rằng ông có quyền lực vô biên, muốn làm gì thì làm?
Với những “tội danh” không một viện kiểm sát, một tòa án nào được biết “chống Đảng có tổ chức, theo chủ nghĩa xét lại, làm tình báo cho nước ngoài (Liên Xô)…” ông Thọ đã đầy đoạ nhiều công dân vô tội, trong đó không ít cán bộ trung, cao cấp từng có công lớn với cách mạng. Tiếp theo đó là cuộc hành hạ theo kiểu “tru di tam tộc” đối với những người trong gia đình họ.
Trong không khí khủng bố căng thắng ấy, một số bạn bè và người thân xa lánh. Không thể trách ai vì đó là bản năng tự vệ của mỗi người dân trong một xã hội thiếu dân chủ, pháp luật chỉ có trên giấy và vì thế đầy dẫy những bất trắc. Sau “Cải cách Ruộng đất”, “Cải tạo Công Thương Nghiệp”, “Nhân văn Giai phẩm”, “xét lại chống Đảng” và biết bao vụ khác nữa, quyền tự do của mỗi người dân bị bóp nghẹt, sự sợ hãi bao trùm toàn xã hội, khiến mỗi người dân muốn sống yên ổn không có cách nào hơn là phải đánh mất chính bản thân mình. Song cũng chính trong những năm tháng gian truân đó, chúng tôi đã tồn tại được không chỉ bằng nghị lực bản thân mà còn vì chúng tôi vẫn đón nhận những lời chào hỏi ân cần, kính trọng, những ánh mắt đầy thiện cảm, những sự giúp đỡ chân tình cả về vật chất lẫn tinh thần từ nhiều người, thậm chí chưa hề quen biết.
Sau lá đơn của mình, tôi cũng nhận được nhiều hồi âm, thăm hỏi của những người dân bình thường từ khắp mọi miền đất nước biểu lộ sự thông cảm sâu sắc và ủng hộ đòi hỏi chính đáng của tôi.
Tâm hồn dân tộc Việt Nam chưa bao giờ đui chột, nó vẫn tồn tại, xuyên suốt thời gian và không gian để cho tư tưởng của người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, đem trí nhân thay cường bạo” trở thành bất diệt.
Tôi tin ông - Nguyễn Trung Thành - đã ý thức được tinh thần đó của Nguyễn Trãi. Ông đã noi gương Lê Thánh Tông, vị vua hiền mà lịch sử dân tộc chưa bao giờ ngừng ca ngợi.
Thực ra, trước đây tôi chỉ biết ông là một trong những người đã trực tiếp tham gia giải quyết vụ này từ đầu, tôi oán ông cũng gần như oán Lê Đức Thọ. Sau này, tôi hiểu rằng ông chỉ là một cán bộ thừa hành dưới quyền Lê Đức Thọ. Ngày ấy nếu ông có đầy đủ tài liệu trong tay và nêu ý kiến của mình như nội dung lá thư vừa rồi thì chắc chắn ông đã bị ngồi tù.
Nhưng sau lá thư vừa rồi, ông đã lấy lại được sự kính trọng nơi tôi và rất nhiều người khác nữa. Ông đã vượt qua chính bản thân để làm một điều hiếm hoi trong lịch sử Đảng trong mấy chục năm qua. Phải có nhiều tình người lắm, phải có nhiều dũng khí lắm mới làm được một điều như vậy khi Đảng và Nhà nước vẫn coi sự phớt lờ đơn từ khiếu oan là quốc sách.
Và vì thế, vụ này đã bị bưng bít suốt mấy chục năm qua. Đó là điều tôi không sao hiểu nổi.
Giờ đây Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ. Đảng đã chấp nhận đổi mới để Việt Nam đi lên, hòa nhập vào cộng đồng thế giới với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Tôi nghĩ không còn lý do gì để trì hoãn việc xem xét lại toàn bộ vụ này một cách công khai. Cần phải phê phán sự độc tài của Lê Đức Thọ, người đã lợi “quyền lãnh đạo của Đảng” để chà đạp lên luật pháp, gây nhiều tội lỗi, làm bại hoại thanh danh của Đảng. Và qua đó, tìm ra cơ cấu ngăn chặn những sự lũng đoạn có thể có trong tương lai, xây dựng một nhà nước pháp quyền dân chủ. Theo tôi cần có “Bộ luật về sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam” chứ không thể là sự lãnh đạo chung chung bằng các chỉ thị và nghị quyết.
Một sự lãnh đạo chung chung làm cho các cơ quan lập pháp, tư pháp, hành pháp thực tế chỉ là công cụ của Đảng mà thôi. Điều này đã được chứng minh bằng sự lộng quyền để chà đạp luật pháp của ông Lê Đức Thọ và một số quan chức cấp cao của Đảng.
Gần 30 năm đã trôi qua. Ông Vũ Đình Huỳnh nhà cách mạng lão thành đã góp cả đời mình cho độc lập, tự do của dân tộc, đặc biệt trong Cách mạng Tháng Tám, trong việc làm kinh tế cho Đảng và giúp Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ lâm thời, chính phủ đại diện cho đoàn kết và hòa hợp dân tộc, một chính phủ thể hiện đầy đủ ý nguyện dân tộc Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng nhà cách mạng lão thành đó đã bị xử trí tàn bạo, phi pháp và đã chết trong oan ức.
Quá nửa các con tôi đã về hưu, đứa út đã gần 40 tuổi. Chưa kể con trai cả của tôi - nhà báo, nhà văn Vũ Thư Hiên không phải là đảng viên, cũng bị bắt và tù 9 năm không án. Số còn lại đã mất hết tuổi thanh xuân và năng lực cống hiến vì phải sống trong o ép ngược đãi. Chúng là nhân chứng của những gì cha chúng đã nếm trải dưới đáy vực cuộc đời. Chúng mang trong lòng nỗi đau khôn nguôi.
Còn tôi một người vợ, một người mẹ, tôi là người mất nhiều hơn cả, từ cái đếm được đến cái không đếm được. Giờ đây, tôi không còn gì để mất. Nhìn rộng hơn chút nữa, suốt mấy chục năm qua biết bao cảnh ngang trái oan ức, biết bao cuộc đời đui chột, cằn cỗi chỉ vì luật pháp mới chỉ có trên giấy. Trong một cơ chế không hợp lý, nó không đủ sức mạnh để bảo vệ cuộc sống yên ổn cho mỗi người dân.
Nhiều nạn nhân trong đó có chồng và con tôi bị bắt, bị tù đầy hàng chục năm với những thủ đoạn tàn bạo: vu cáo, dựng tội, ép cung... mà chưa được đưa ra bất kỳ một tòa án nào, kể cả “tòa án” của Đảng. Như vậy theo tư cách công dân họ vẫn vô can. Muốn xác định trắng đen cần phải đưa ra tòa xét xử công khai. Chỉ có kết luận của tòa án mới thực sự hợp hiến, hợp pháp. Mọi cách giải quyết nội bộ kiểu ông Lê Đức Thọ là sai với pháp luật. Giờ đây, những người lãnh đạo Đảng và Nhà nước không chỉ thừa kế công lao mà còn phải thừa kế cả lỗi lầm của các nhà lãnh đạo tiền nhiệm, đó là lẽ công bằng của lịch sử.
Trong lá thư của ông đề cập đến con số 32 cán bộ đảng viên đã bị xử trí. Theo tôi con số này lớn hơn nhiều, đặc biệt còn có nhiều người ngoài Đảng, họ cũng phải được minh oan, được bồi thường những thiệt thòi về vật chất, được công khai trả lại danh dự đã bị bôi nhọ suốt mấy chục năm qua. Bây giờ đã là quá muộn để làm một việc như vậy.
Lá thư của ông là tia nắng rọi vào bóng đêm dày đặc còn bao phủ lên vụ này đã gần ba thập kỷ. Đó là tiếng nói của lương tri, của lẽ phải. Tôi đồng ý với ông rằng, khi giải quyết công khai những sai lầm trong vụ này, Đảng sẽ đáng được tin cậy hơn trước mắt nhân dân Việt Nam và dư luận quốc tế. Vì đây sẽ là một trong những bằng chứng về sự thực tâm xây dựng một nhà nước pháp quyền, một nền dân chủ đích thực.
Tôi tin rằng sau sự lên tiếng của ông, sẽ có nhiều tiếng nói khác nữa, đồng ý với ông, từ phía những người đã biết, đã từng tham gia xử lý vụ này, nếu họ là những người có lương tri.
Dân tộc ta rất tôn trọng lòng nhân ái. Tôi rất muốn tin các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta là những người giàu lòng nhân ái. Khi lòng nhân ái ngự trị trong tim người ta không bao giờ quay lưng ngoảnh mặt trước bất kỳ cảnh oan trái nào.
Hơn nữa, đây là trách nhiệm không thể thoái thác.
Ông Nguyễn Trung Thành kính mến,
Tôi hoan nghênh ý kiến của ông!
Tôi tin rằng ý kiến đó sẽ được ủng hộ từ bất kỳ một người dân Việt Nam nào yêu tự do và công lý, dù trong hay ngoài Đảng.
Và tôi tin rằng trong việc này, ông sẽ được Trời Phật phù hộ.
Viết mãi không hết lời. Cuối thư xin gửi tới ông lời chào trân trọng và lời chúc sức khỏe.
Kính thư,
Phạm Thị Tề
TB: Tôi gửi kèm theo lá thư của ông Vũ Đình Huỳnh gửi Tổng bí thư Đảng Nguyễn Văn Linh. Đây là sự lên tiếng cuối cùng của ông Vũ Đình Huỳnh trước khi chết.
Thưa ông Nguyễn Trung Thành
Tôi là Phạm Thị Tề, vợ góa ông Vũ Đình Huỳnh, một trong những nạn nhân oan khuất của cái gọi là “Vụ án xét lại chống Đảng”.
Sau khi đọc xong thư của ông ngày 3-2-1995 gửi các quan chức cấp cao của Đảng và Nhà nước, tôi bàng hoàng xúc động. Tôi trân trọng đặt thư ông lên bàn thờ ông Vũ Đình Huỳnh, thắp nến, châm hương, gửi nó tới oan hồn chồng tôi, cầu cho ông được nhẹ nhõm phần nào nơi chín suối.
Trong những ngày cuối cùng ông quằn quại, vật vã, ông chờ đợi một điều gì đó nhưng điều đó đã không đến. Khi vĩnh viễn ra đi, mắt ông không nhắm lại được, các con tôi đã vuốt mắt cho cha. Sang thế giới bên kia, ông Huỳnh đã đem theo niềm uất hận cuộc đời. Tôi, các con tôi, các cháu tôi cũng thừa hưởng niềm uất hận vì oan trái ấy, thay vì một tài sản thừa kế.
Xuất thân từ một gia đình đạo gốc, năm 16 tuổi ông đã giác ngộ cách mạng, trở thành một trong những đảng viên cộng sản đầu tiên. Từ đó, ông đã hiến cả cuộc đời mình cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và tự do cho mỗi người Việt Nam. Ông đã tin vào chủ nghĩa Mác-Lênin còn hơn ngày nào ông đã từng tin Chúa và chung thủy với giáo lý ấy đến cuối đời.
Thế rồi cả công lao, cả tên tuổi đã bị đồng chí của mình - Lê Đức Thọ - xóa sạch.
Gia đình tôi đã tự đứng ra tổ chức lễ tang cho ông trong sự tiễn đưa của họ hàng, bạn hữu cùng các cơ quan đoàn thể. Một lễ tang ấm áp tình người và lạnh lẽo tình đồng chí. Không một đại diện nào của Đảng đến viếng người quá cố, dù nghĩa tử là nghĩa tận. Cùng theo nguyện vọng của họ hàng, tôi đã mời một người cháu là linh mục đến cầu nguyện cho ông. Chưa yên tâm, tôi lại mời các nhà sư đến tụng kinh niệm Phật. Những yêu cầu của tôi đã được đáp ứng mau lẹ, để cho linh hồn ông được siêu thoát. Những tôn giáo khác đã tỏ ra giàu tình người hơn.
Lá đơn tôi viết ngày 20-2-1994 là một trong hàng núi đơn từ khiếu oan của những người trực tiếp và gián tiếp dính vào “vụ xét lại chống Đảng”.
Sự bất đồng về quan điểm - trước số phận của đất nước - với nghị quyết IX (1963) chỉ là lý do trực tiếp dẫn tới việc bắt bớ, tù đầy, đàn áp khốc liệt các cán bộ ở trong và ngoài Đảng. Nguyên nhân sâu xa của vụ này ở đâu? Tôi tin rằng có âm mưu cá nhân của ông Lê Đức Thọ đằng sau cuộc thanh trừng lớn lao này.
Chồng tôi và ông Lê Đức Thọ là đồng hương, quen biết và cùng hoạt động từ ngày cách mạng còn trong trứng nước, rồi cùng tù Sơn La, cùng tham gia Cách mạng Tháng Tám và chín năm kháng chiến ở Việt Bắc. Phải nói giữa họ vừa có tình bạn, tình đồng hương, tình đồng chí. Ông Huỳnh biết quá nhiều về ông Thọ và điều này thực sự là một tai họa với ông.
Cho đến giờ phút này tôi vẫn không sao cắt nghĩa được tại sao những người đồng chí lại có thể tàn ác ám hại nhau một cách khốc liệt đến thế?
Ông Huỳnh bị bắt đêm 18-10-1967, bị còng tay bằng khóa số 8, khi còng sắt không vừa, công an đã dùng dây thừng trói giật cánh khuỷu ông, một ông già đã về hưu. Hình ảnh đó cho đến chết tôi cũng không thể quên, vì nó tàn bạo và man rợ gấp bội phần so với thời thực dân. May mà các con tôi không có nhà (các cháu đang ở nơi sơ tán), bởi nếu chúng chứng kiến cảnh tàn bạo đó, trái tim non nớt của chúng sẽ chứa đầy hận thù và niềm tin sẽ không còn đất nẩy mầm. Mãi sau này, tôi được biết đó là đòn phủ đầu theo lệnh ông Lê Đức Thọ. Ông Huỳnh cũng như một số người khác đã nếm đủ mùi tra tấn, kìm kẹp dưới thời thực dân, muốn khuất phục họ cần phải có những biện pháp tàn bạo hơn? Thế mới biết, hòn đá ném từ tay người bạn, người đồng chí bao giờ cũng bất ngờ và đau hơn.
Sau 6 tháng bị nhốt trong xà lim Hỏa Lò (Maison centrale) ông bị đưa lên Bất Bạt (Sơn Tây), rồi Tân Lập (Vĩnh Phú), Phong Quang (Lào Cai)... Những năm đầu, ông bị giam riêng trong một căn nhà có hàng rào kẽm gai bao quanh, chơ vơ giữa một quả đồi. Đến bữa, có người lặng lẽ treo cặp lồng cơm vào cửa, người này không được phép giao tiếp. Cách giam giữ này có thể làm người tù phát điên. Nếu mỗi bình minh không thỉnh thoảng nghe tiếng chim hót trong rừng, nếu mỗi đêm dài không đôi khi nghe chó sủa xa xa thì mỗi người tù đều có cảm giác như mình đang sống trong nhà mồ. Còn ông Thọ thì chỉ coi đó là “cuộc đấu tranh nội bộ”, rằng “những người đồng chí không bỏ tù nhau đâu”, rằng “thuyết phục không được thì phải dùng biện pháp hành chính”. Ông không có khái niệm gì về pháp luật hay khi đang ở vị thế “thái thượng hoàng”, ủy viên Bộ chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương ông cho rằng ông có quyền lực vô biên, muốn làm gì thì làm?
Với những “tội danh” không một viện kiểm sát, một tòa án nào được biết “chống Đảng có tổ chức, theo chủ nghĩa xét lại, làm tình báo cho nước ngoài (Liên Xô)…” ông Thọ đã đầy đoạ nhiều công dân vô tội, trong đó không ít cán bộ trung, cao cấp từng có công lớn với cách mạng. Tiếp theo đó là cuộc hành hạ theo kiểu “tru di tam tộc” đối với những người trong gia đình họ.
Trong không khí khủng bố căng thắng ấy, một số bạn bè và người thân xa lánh. Không thể trách ai vì đó là bản năng tự vệ của mỗi người dân trong một xã hội thiếu dân chủ, pháp luật chỉ có trên giấy và vì thế đầy dẫy những bất trắc. Sau “Cải cách Ruộng đất”, “Cải tạo Công Thương Nghiệp”, “Nhân văn Giai phẩm”, “xét lại chống Đảng” và biết bao vụ khác nữa, quyền tự do của mỗi người dân bị bóp nghẹt, sự sợ hãi bao trùm toàn xã hội, khiến mỗi người dân muốn sống yên ổn không có cách nào hơn là phải đánh mất chính bản thân mình. Song cũng chính trong những năm tháng gian truân đó, chúng tôi đã tồn tại được không chỉ bằng nghị lực bản thân mà còn vì chúng tôi vẫn đón nhận những lời chào hỏi ân cần, kính trọng, những ánh mắt đầy thiện cảm, những sự giúp đỡ chân tình cả về vật chất lẫn tinh thần từ nhiều người, thậm chí chưa hề quen biết.
Sau lá đơn của mình, tôi cũng nhận được nhiều hồi âm, thăm hỏi của những người dân bình thường từ khắp mọi miền đất nước biểu lộ sự thông cảm sâu sắc và ủng hộ đòi hỏi chính đáng của tôi.
Tâm hồn dân tộc Việt Nam chưa bao giờ đui chột, nó vẫn tồn tại, xuyên suốt thời gian và không gian để cho tư tưởng của người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, đem trí nhân thay cường bạo” trở thành bất diệt.
Tôi tin ông - Nguyễn Trung Thành - đã ý thức được tinh thần đó của Nguyễn Trãi. Ông đã noi gương Lê Thánh Tông, vị vua hiền mà lịch sử dân tộc chưa bao giờ ngừng ca ngợi.
Thực ra, trước đây tôi chỉ biết ông là một trong những người đã trực tiếp tham gia giải quyết vụ này từ đầu, tôi oán ông cũng gần như oán Lê Đức Thọ. Sau này, tôi hiểu rằng ông chỉ là một cán bộ thừa hành dưới quyền Lê Đức Thọ. Ngày ấy nếu ông có đầy đủ tài liệu trong tay và nêu ý kiến của mình như nội dung lá thư vừa rồi thì chắc chắn ông đã bị ngồi tù.
Nhưng sau lá thư vừa rồi, ông đã lấy lại được sự kính trọng nơi tôi và rất nhiều người khác nữa. Ông đã vượt qua chính bản thân để làm một điều hiếm hoi trong lịch sử Đảng trong mấy chục năm qua. Phải có nhiều tình người lắm, phải có nhiều dũng khí lắm mới làm được một điều như vậy khi Đảng và Nhà nước vẫn coi sự phớt lờ đơn từ khiếu oan là quốc sách.
Và vì thế, vụ này đã bị bưng bít suốt mấy chục năm qua. Đó là điều tôi không sao hiểu nổi.
Giờ đây Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ. Đảng đã chấp nhận đổi mới để Việt Nam đi lên, hòa nhập vào cộng đồng thế giới với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Tôi nghĩ không còn lý do gì để trì hoãn việc xem xét lại toàn bộ vụ này một cách công khai. Cần phải phê phán sự độc tài của Lê Đức Thọ, người đã lợi “quyền lãnh đạo của Đảng” để chà đạp lên luật pháp, gây nhiều tội lỗi, làm bại hoại thanh danh của Đảng. Và qua đó, tìm ra cơ cấu ngăn chặn những sự lũng đoạn có thể có trong tương lai, xây dựng một nhà nước pháp quyền dân chủ. Theo tôi cần có “Bộ luật về sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam” chứ không thể là sự lãnh đạo chung chung bằng các chỉ thị và nghị quyết.
Một sự lãnh đạo chung chung làm cho các cơ quan lập pháp, tư pháp, hành pháp thực tế chỉ là công cụ của Đảng mà thôi. Điều này đã được chứng minh bằng sự lộng quyền để chà đạp luật pháp của ông Lê Đức Thọ và một số quan chức cấp cao của Đảng.
Gần 30 năm đã trôi qua. Ông Vũ Đình Huỳnh nhà cách mạng lão thành đã góp cả đời mình cho độc lập, tự do của dân tộc, đặc biệt trong Cách mạng Tháng Tám, trong việc làm kinh tế cho Đảng và giúp Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ lâm thời, chính phủ đại diện cho đoàn kết và hòa hợp dân tộc, một chính phủ thể hiện đầy đủ ý nguyện dân tộc Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng nhà cách mạng lão thành đó đã bị xử trí tàn bạo, phi pháp và đã chết trong oan ức.
Quá nửa các con tôi đã về hưu, đứa út đã gần 40 tuổi. Chưa kể con trai cả của tôi - nhà báo, nhà văn Vũ Thư Hiên không phải là đảng viên, cũng bị bắt và tù 9 năm không án. Số còn lại đã mất hết tuổi thanh xuân và năng lực cống hiến vì phải sống trong o ép ngược đãi. Chúng là nhân chứng của những gì cha chúng đã nếm trải dưới đáy vực cuộc đời. Chúng mang trong lòng nỗi đau khôn nguôi.
Còn tôi một người vợ, một người mẹ, tôi là người mất nhiều hơn cả, từ cái đếm được đến cái không đếm được. Giờ đây, tôi không còn gì để mất. Nhìn rộng hơn chút nữa, suốt mấy chục năm qua biết bao cảnh ngang trái oan ức, biết bao cuộc đời đui chột, cằn cỗi chỉ vì luật pháp mới chỉ có trên giấy. Trong một cơ chế không hợp lý, nó không đủ sức mạnh để bảo vệ cuộc sống yên ổn cho mỗi người dân.
Nhiều nạn nhân trong đó có chồng và con tôi bị bắt, bị tù đầy hàng chục năm với những thủ đoạn tàn bạo: vu cáo, dựng tội, ép cung... mà chưa được đưa ra bất kỳ một tòa án nào, kể cả “tòa án” của Đảng. Như vậy theo tư cách công dân họ vẫn vô can. Muốn xác định trắng đen cần phải đưa ra tòa xét xử công khai. Chỉ có kết luận của tòa án mới thực sự hợp hiến, hợp pháp. Mọi cách giải quyết nội bộ kiểu ông Lê Đức Thọ là sai với pháp luật. Giờ đây, những người lãnh đạo Đảng và Nhà nước không chỉ thừa kế công lao mà còn phải thừa kế cả lỗi lầm của các nhà lãnh đạo tiền nhiệm, đó là lẽ công bằng của lịch sử.
Trong lá thư của ông đề cập đến con số 32 cán bộ đảng viên đã bị xử trí. Theo tôi con số này lớn hơn nhiều, đặc biệt còn có nhiều người ngoài Đảng, họ cũng phải được minh oan, được bồi thường những thiệt thòi về vật chất, được công khai trả lại danh dự đã bị bôi nhọ suốt mấy chục năm qua. Bây giờ đã là quá muộn để làm một việc như vậy.
Lá thư của ông là tia nắng rọi vào bóng đêm dày đặc còn bao phủ lên vụ này đã gần ba thập kỷ. Đó là tiếng nói của lương tri, của lẽ phải. Tôi đồng ý với ông rằng, khi giải quyết công khai những sai lầm trong vụ này, Đảng sẽ đáng được tin cậy hơn trước mắt nhân dân Việt Nam và dư luận quốc tế. Vì đây sẽ là một trong những bằng chứng về sự thực tâm xây dựng một nhà nước pháp quyền, một nền dân chủ đích thực.
Tôi tin rằng sau sự lên tiếng của ông, sẽ có nhiều tiếng nói khác nữa, đồng ý với ông, từ phía những người đã biết, đã từng tham gia xử lý vụ này, nếu họ là những người có lương tri.
Dân tộc ta rất tôn trọng lòng nhân ái. Tôi rất muốn tin các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta là những người giàu lòng nhân ái. Khi lòng nhân ái ngự trị trong tim người ta không bao giờ quay lưng ngoảnh mặt trước bất kỳ cảnh oan trái nào.
Hơn nữa, đây là trách nhiệm không thể thoái thác.
Ông Nguyễn Trung Thành kính mến,
Tôi hoan nghênh ý kiến của ông!
Tôi tin rằng ý kiến đó sẽ được ủng hộ từ bất kỳ một người dân Việt Nam nào yêu tự do và công lý, dù trong hay ngoài Đảng.
Và tôi tin rằng trong việc này, ông sẽ được Trời Phật phù hộ.
Viết mãi không hết lời. Cuối thư xin gửi tới ông lời chào trân trọng và lời chúc sức khỏe.
Kính thư,
Phạm Thị Tề
TB: Tôi gửi kèm theo lá thư của ông Vũ Đình Huỳnh gửi Tổng bí thư Đảng Nguyễn Văn Linh. Đây là sự lên tiếng cuối cùng của ông Vũ Đình Huỳnh trước khi chết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét